Phụ Lục
Có lẽ game thủ đã biết tới Playstation VR, đây là một sản phẩm đem lại cách trải nghiệm game hoàn toàn mới lạ, được hỗ trợ cho riêng hệ máy PS4. Tuy nhiên, câu chuyện về sự ra đời và những con người làm ra nó thì không phải ai cũng biết.
Hãy cùng Mọt tôi tìm hiểu rõ hơn cách mà Playstation VR ra đời như thế nào và phải trải qua bao nhiêu nguyên mẫu mới có thể tới được tay người tiêu dùng phiên bản chuẩn nhất.
Khi bắt đầu tại Sony vào năm 1999, Richard Marks đã thử nghiệm rất nhiều cách tương tác với các trò chơi trên Playstation. Một số cách đã được áp dụng và nhân rộng ra trên thị trường như Eyetoy, cho phép người chơi PS2 có thể thấy mình trên màn hình và tương tác với các vật thể xung quanh trong game. Nhưng cũng có những cách chưa bao giờ được công bố như việc kết nối chú chó robot AIBO với PS2.
Năm 2016, ông là giám đốc của một nhóm được gọi là “Magic Lab” – tên chính thức hóa cho những gì ông và hai người nữa làm trong nhiều năm với sự tự do cao hơn.
Magic Lab thường làm việc với những ý tưởng điên rồ hơn rất nhiều. Họ dành thời gian xem xét những nghiên cứu hay công nghệ đang có trên thế giới, để từ đó áp dụng vào Playstation. Magic Lab đang nghiên cứu công nghệ “eye tracking” – nghiên cứu về chuyển động mắt của người dùng, để xem nó có thể áp dụng và kiểm soát các trò chơi console hay không.
Đôi khi, nhóm phát triển này làm không phải với mục đích để thương mại hóa ý tưởng. Trong buổi ra mắt PS4, Marks và nhóm của anh đã thực hiện một phiên bản Breakout, một trò chơi cổ điển nhưng người hâm mộ có thể tham gia bằng chính đôi chân của mình. Trong một sự kiện bán hàng, họ đã thực hiện một trò chơi mà 300 người có thể cùng lúc trải nghiệm trên một màn hình có chiều dài khoảng hơn 30m.
Phòng nghiên cứu của Marks cùng đội của mình có rất nhiều thứ khác nữa như máy bay không người lái, đồ chơi Nerf, kính viễn vọng,... được đặt rải rác. Marks chia sẻ: “Chúng tôi gọi đó là Phòng thí nghiệm Phép Thuật để bạn hiểu rằng tất cả chỉ là thử nghiệm.”
Marks nói rằng một phần công việc của nhóm là phục vụ như một sự gắn kết các bộ phận khác nhau trong Sony, để giữ cho họ “ngọn lửa nhiệt huyết” của các nhóm khác để góp phần thúc đẩy cho một mục tiêu chung.
“Magic Lab cố gắng giao tiếp giữa tất cả các nhóm và đôi khi chúng tôi có thể ảnh hưởng đến họ một chút cũng như nhận lại được sự giúp đỡ nào đó từ họ.”
Marks và Magic Lab đã có công trong rất nhiều dự án và Playstation VR là một trong số đó.
Trước khi thành lập Magic Lab, Marks và nhóm của ông đã thực hiện nhiều phương pháp thử nghiệm tương tự. Dự án lớn nhất của họ chính là bộ điều khiển Playstation Move. Nó trông giống một cây đũa phép với một quả bóng phát sang gắn trên đầu, và người chơi có thể xoay nó để điều khiển những gì có trên màn hình.
Nó hoàn toàn không phải một ý tưởng gì mới. Trong năm 2006, Nintendo đã phát hành Wii Remote và nhanh chóng trở thành một biểu tượng văn hóa. Dù PS Move đánh dấu một bước tiến lớn của công nghệ, cho phép điều khiển các vật thể 3D với độ chính xác cao hơn nhưng nhiều người vẫn cho rằng nó chỉ là một phiên bản "chôm ý tưởng" của Wii Remote.
Đó là khoảng thời gian bộ điều khiển chuyển động trở thành xu thế của ngành công nghiệp game khi Microsoft đồng thời cũng phát hành Kinect.
Về phía Sony, hãng có những bước tiếp cận khá thận trọng với PS Move, họ cung cấp một nguồn lực lớn hỗ trợ nhưng lại không hoàn toàn đặt sự sống còn của công ty vào nó.
PS Move dù có kiếm được doanh thu về cho Sony nhưng nó lại không bao giờ thu hút được sự chú ý của công chúng như Wii của Nintendo hay Kinect của Microsoft. Sony cũng không hề hỗ trợ phần mềm để duy trì nó trong thời gian dài.
Tuy nhiên, ở hậu trường, các kỹ sư của Sony nhận ra công nghệ bên trong Move có thể là tiền đề, là bàn đạp cho một cơ hội thành công lớn hơn ở phía sau.
Jeff Stafford là một kỹ sư trong bộ phận R&D của Sony Computer Entertainment America, ông là một trong những người đầu tiên làm một việc mà Marks đã chia sẻ, đó là lấy PS Move gắn vào đầu của người dùng. Marks đã gọi Stafford là “kiến trúc sư” đằng sau Playstation VR.
Stafford hiện đang nắm giữ rất nhiều vị trí tại bộ phận R&D. Ông là kỹ sư phần mềm cao cấp, mặc dù cũng là người đồng sáng lập Playstation VR. Tuy nhiên, Stafford cũng là người tham gia vào hầu hết mọi khía cạnh của PS VR.
Câu chuyện VR của Stafford bắt đầu vào năm 2010. Sau nhiều năm ông ấy viết phần mềm live-stream Playstation cho các công ty như Hulu, Major League Baseball, Stafford bắt đầu thấy mệt mỏi. Sony khi đó đã có dự án mang tên “10 phần trăm”, nơi các nhân viên chỉ cần bỏ ra 10% thời gian cho bất cứ điều gì họ muốn, miễn là nó có sự liên kết với Playstation.
Stafford quyết định dành thời gian nghiên cứu công nghệ thực tế tăng cường, đến thăm các công ty bên ngoài và làm cho một website để thu thập lại kiến thức mình học được.
Vào năm 2011, Crusoe Mao, người đứng đầu bộ phận thiết vị ngoại vi của Sony đã nhìn thấy nghiên cứu của Stafford và đề nghị ông chuyển sự tập trung của mình để thành được sản phẩm. Mao đã liên lạc với một nhóm nhỏ của Sony làm việc ngoài Vương Quốc Anh lúc bấy giờ, được gọi là nhóm công nghệ nhập vai. Nhóm này trước đây đã thực hiện một dạng lập thể 3D trên PS3 và có kinh nghiệm trong lĩnh vực hiển thị hình ảnh, và một thành viên khác trong nhóm cũng đã làm việc với sản phẩm tai nghe cho British Aerospace.
Ngay sau đó, Stafford bắt đầu cộng tác với nhóm ở Anh, chia sẻ các nghiên cứu và tìm hiểu xem điều gì có thể làm được với các thấu kính quang học khác nhau.
Thời gian trôi qua, Stafford và nhóm của mình đã bắt đầu làm việc với một kỹ sư cơ khí ở văn phòng của Mỹ có tên là Glen Black. Ông đã đưa ra các thông số kỹ thuật khác nhau và yêu cầu Glen giả lập chúng để xây dựng nguyên mẫu đầu tiên. Tại thời điểm đó, nguyên mẫu của Playstation VR có tên “Project Morpheus”.
Vào tháng 1 năm 2012, Stafford có tham dự triển lãm Điện tử Tiêu Dùng ở Las Vegas, ông có xem qua các gian hàng với hi vọng có thể tìm ra được điều gì đó phát triển cho nguyên mẫu của mình. Sau đó anh nhìn thấy một sản phẩm máy matxa đầu, một ý tưởng chợt nảy lên trong đầu của Stafford, ông có thể sử dụng chiếc máy này như một chiếc mũ để chế tạo ra một nguyên mẫu VR khác nữa.
Stafford giữ một đống nguyên mẫu Playstation VR trong ngăn kéo bàn làm việc của mình, có các phiên bản 1.1, 1.5 và 2.0. Mỗi phiên bản thử nghiệm là có nhiều sự thay đổi. Ông chia sẻ rằng làm việc ở Sony có một yếu tố thuận lợi là những công nghệ cần thiết cho dự án đều có ở sẵn công ty.
Vào giữa năm 2012, Stafford cho biết nhóm của ông đã được bật đèn xanh để theo đuổi dự án VR như một sản phẩm chứ không chỉ dừng lại ở nghiên cứu nữa. Chủ tịch Sony Computer Entertainment Worldwide Studios, Shuhei Yoshida và Miura trực tiếp giám sát dự án này, Sony cũng đã tạo ra một nhóm nghiên cứu phát triển lớn hơn.
Ngay trong khoảng thời gian đó, một công ty mới nổi có tên Oculus VR đã gây được tiếng vang với sản phẩm kính thực tế ảo của riêng mình.
(Còn tiếp)